Ba sư huynh đệ đã lâu không ngồi nói chuyện với nhau, Chú Tư cầm chai rượu đưa lên mũi ngửi ngửi, hít hà:
- Rượu nếp vàng thơm quá. Mà định bao giờ cưới vợ hửm? Mày đủ tuổi lấy vợ rồi mà, quá 25 rồi nhỉ?
- Dạ, tết năm nay thì em tròn 26. Chỉ là chưa có mối tình nào anh 4 à?
- Ui giời, cái thằng này. Tính ra cái tuổi anh em mình là ế chổng vó rồi đó. Mày mà không lo cưới sớm, đợi ba mẹ mày hối thúc gậy vào chân à?
Trong tông tộc có quy định đệ tử nam thì phải qua 25 tuổi mới được kết hôn và phải giữ thân trong sạch, không được quan hệ trước 20 tuổi. Đây là điều quyết định con đường sẽ đi xa tới đâu, nếu thất thân, quan hệ chuyện nam nữ thì chắc chắn con đường tu hành sẽ cực kỳ khó khăn. Qua 25 tuổi kết hôn là để cho các đệ tử đủ chín chắn trong sự nghiệp ở trần tục, và vững vàng về tinh thần, trách nhiệm. Mà nghe đâu sư tổ đời thứ nhất thất thân sớm, rồi lập gia đình, cuối cùng có kết cục rất thảm, cho nên ngài ấy đặt ra quy định này cũng để răn đe đời sau. Viên Toàn cũng đành ngậm ngùi, đưa tay mời rượu 2 sư huynh:
- Dạ, thú thật thì em cũng đang quen với cô này. Cổ ở nơi khác, tới đây phụ bán quán cho họ hàng. Mà em cứ lo thân mình tu hành, liệu việc lập gia đình có ảnh hưởng tới họ không nữa?
Bác 2 uống chút rượu, tay mân mê sợi chuỗi kim cang trên tay mình, ông ấy thoáng chốc gỡ chiếc mắt kính trên mắt xuống, lấy vạt áo lau đi hơi nước từ nồi cháo gà:
- Thực ra mà nói. Tông tộc chúng ta để chúng ta có gia đình, sinh con đẻ cái chu lo hương hỏa mai này. Nhưng khi con cái trưởng thành, thì chúng ít nhiều cũng sẽ nối nghiệp của mình. Cho nên ai cũng ráng sinh cho nhiều, 3, 4 đứa. Anh bảo Toàn, mày không sai với đạo đức, với trời đất với người mày thương thì hãy mạnh dạn mà tiến tới cổ. Ngày cưới của mày, anh nhất định thu xếp tới uống rượu hỷ.
- Dạ dạ, có 2 anh tới thì vinh hạnh cho em quá. Em chỉ là ngoại đệ tử, được hai anh yêu thương quan tâm thì còn gì bằng. Nào, kính 2 anh ly rượu đầy như tình cảm của sư huynh đệ chúng ta.
- Haha, đúng thật là rượu vào lời ra mà. Uống đi.
- Dạ, mà sáng mai các anh đi thăm miếu thành hoàng đi ạ. Để em chuẩn bị lễ vật cho.
- ừm, nhờ chú mày nhể, haha.
Khổ Qua với anh 3 Phát vừa tắm xong, ăn thêm chén cháo, khi đứng dậy lên phòng thấy trong nhà có 1 chiếc lồng chim, mà bên trong là 1 con vẹt đang ngủ, Khổ Qua hỏi nó có biết nói không thì Viên Toàn cười bảo đang cho nó ăn ớt để lột lưỡi, dễ nói hơn. Hai anh em ngắm con vẹt chán chê rồi đi nằm ngủ. Khi giấc ngủ đã tỉnh, trời đã mới tờ mờ sáng. Chú Tư với bác 2 đã lay hai đứa dậy:
- Ê, dậy đi 2 thằng quỷ. Hễ cơ là ngủ, mọi khi 5 giờ dậy.
Khổ Qua nhìn đồng hồ thì thấy mới có 4 giờ sáng:
- Còn 1 tiếng nữa lận đó Chú Tư, cho con ngủ thêm đi mà.
Chú Tư thấy chướng mắt, lập tức đi xách nguyên 1 thùng nước rồi đổ thẳng lên người 2 đứa nhỏ. Trời lạnh lại càng thêm buốt, cơn buồn ngủ bị đánh tan lập tức:
- A a a, lạnh quá, chú nỡ tạt nước tụi con, huhu, con về méc bà nội.
Bác 2 thấy thời gian không còn nhiều:
- Đi hành pháp thì dù là 1 giờ sáng thì cũng phải đi. Hai đứa trước khi đi mạnh miệng thế nào hửm, giờ chỉ có chút chuyện ngủ dậy cũng lề mề.
- Hic, dạ, tụi con biết lỗi rồi. Đợi tụi con thay đồ mới.
4 Người mặc đồ ấm đi ra khỏi nhà nghỉ, bác 2 lại lật ra biến thiên bàn đặt trên lòng bàn tay của mình. Chú Tư ấy thả vào đó 1 nhúm tóc, đây là tóc của 2 vị đệ tử kia mà bác đã xin phép cha mẹ họ để lấy. Chú còn đưa cho Khổ Qua và anh 3 phát mỗi người 1 cái túi, mở ra mới hiểu bên trong có móng tay, tóc cùng với 1 tấm vải nhỏ thấm máu:
- Cầm lấy mà giữ bên người. Hiện hai đứa đang đóng giả 2 ngoại sư huynh đã chết, tóc, móng tay và máu đảm bảo mùi và khí của họ khớp với giả hồn mà ta đã làm.
- Dạ tụi con hiểu. Mà giờ mình đi đâu trước hả bác?
- Đi tới đâu thì cũng cần hỏi thổ địa, thành hoàng, hoặc thần sông, thần núi. Tóm lại là chư thần cai quản vùng đất đó.
Bốn người lầm lũi trong bóng tối đi tới miếu thành hoàng. Miếu Thành Hoàng là nơi thờ phụng các vị có công khai phá, giúp dân từ thuở sơ khai của vùng đất này. Những vị này có thể là 1 vị quan sai được triều đình phong kiến đưa về đây, cũng có thể là những người có công đức giữ nước, chống giặc. Miếu Thành Hoàng nằm ở 1 nơi riêng biệt, tách xa với trung tâm thành phố. Và nằm yên tại 1 ngọn núi, đường đi thì xa xôi may mà có người giúp việc tên Thành lấy ôtô chở đi. Trên xe có mang theo ít đồ chay, hoa quả, cùng giấy vàng, một bộ áo giấy, mũ lộng và ngựa, cùng ít hương trầm. Khổ Qua thắc mắc:
- Sao mình không dùng đồ mặn, con thấy bên ngoài họ dùng nhiều lắm ấy ạ
Bác 2 cười xoa đầu cậu:
- Việc gì tránh sát sinh, lấy thân xác của chúng sinh để làm vật tế, vật lễ thì hạn chế càng tốt. Đồ chay thanh đạm, thích hợp cho các chư thần thưởng ngự dụng. Hiểu chưa?
- Dạ, con nhớ.
Chiếc ôtô dừng lại trước chân ngọn núi, phải đi lên nhiều bậc thang đá thì mới tới được miếu thành hoàng. Nói là miếu nhưng được xây dựng cực kỳ khang trang, vùng đất này cũng gọi là sầm uất, người dân góp tiền xây dựng lại cực kỳ công phu. Bác 2 không mang theo đèn pin, mà tay chỉ cầm 1 chiếc đèn lồng bằng giấy. Ông thắp lửa vào bên trong, tay điểm vào đó 1 đạo ấn:
- Minh hỏa cửu vạn, vĩnh sinh toại thế. Thành Hoàng công đức, thấu tình dục giới. Kính Hương, Dâng Hỏa.
Ngọn lửa ở trong ngọn đèn lồng sáng lên, xung quanh bỗng có nhiều mây mù kéo tới, sương trắng xóa che đi đường lên trên núi. Bác 2 kéo ra 1 tờ giấy nhúng vào lửa cho sáng rồi tung lên trời, tàn lửa bay tới đâu thì sương mù tản ra tới đó. 4 Người đi từng bậc lên, Khổ Qua thấy lạnh cực. Cậu ôm thân mình run rẩy, khi đi lên trên thì ở phía cổng đã có 2 người mặc giáp binh, đầu cúi xuống không nhìn rõ, còn tay cầm 1 ngọn giáo lớn. Bác 2 chắp tay đưa về phía họ rồi nói vọng:
- Vô thượng đạo nhân từ Tiên Sơn, thuộc dòng tộc Nguyễn Tiên, được chúa Nguyễn Hoàng sắc phong. Hôm nay, đi tới thỉnh lễ thành hoàng. Trên thuận trời, dưới hợp đất. Xin cho được vào.
Cánh cổng vốn mù mịt, không thấy rõ đường đi thì cuối cùng đã tản bớt sương mù ra. Bác 2 đi trước dẫn theo 3 người bước vào. Khổ Qua có ấn tượng rất mạnh đối với 2 người gác cổng này, họ cao và gầy như 1 cây tre, dù mặt không thấy được nhưng tạo cảm giác rất kỳ quái. Bác bước vào trong, bắt gặp 1 cái đỉnh bằng đồng rất lớn. Bác đã chuẩn bị sẵn 3 cây nhang đại cực lớn, dài chừng 80 cen-ti-met, to bằng ngón tay cái. Loại nhang đại này chỉ dùng để thực hiện các nghi thức lớn và quan trọng, không thể tùy tiện dùng, và các nơi trang nghiêm như chùa chiền, đình miếu, cung điện, ... mới được phép dùng. Và người dâng 3 nén nhang đại này cũng cần có đạo hạnh cực kỳ cao thâm, giữ giới, tu dưỡng đức và năng hành thiện pháp mới được phép dâng. Bác 2 cầm cùng lúc 3 nén nhang đại, ngửa lên rồi mắt giật chớp, thở hít vào một hơi thật sâu. Lửa từ bên trong lồng đèn bùng cháy lên thắp lửa trên ba đầu hương, bác lại thở ra 1 làn hơi nhẹ làm chúng tắt đi. Bác bước từng bước rồi cắm vào trong đỉnh đồng, miệng đọc gì đó làm Khổ Qua không nhớ rõ. Đột nhiên, cánh cửa gỗ mở toang ra cùng với tiếng gió rít lên cùng cực. Bác 2 bảo mọi người vào trong miếu dâng hương, còn mình sẽ đứng ở ngay cửa, 1 chân ở bên ngoài, 1 chân đặt ở bên trong. Chú Tư thấy ánh mắt của bác 2 thì nhận ra có gì đó bất thường, mà không thể tiện nói ở đây được. Khi dâng hương lễ cho thần hoàng xong thì 4 người lại đi xuống dưới chân núi.
4 người đi ra bên ngoài, thì đột nhiên đã thấy có 1 bóng người đứng chờ sẵn ở sân. Người này không nói không rằng, giọng nói ồ ồ cất lên:
- Cút khỏi đây, cút khỏi đây, cút khỏi đây. Mạng chỉ có 1, đừng phí phạm, chớ phí, 1 mạng, trân quý.
Lời nói của người này không thống nhất với nhau gì cả, mà giọng đó cực chói tai như tiếng kèn thổi bằng gió, lúc thấp, lúc trầm càng khiến người nghe nhất thời không hiểu được rõ ràng. Chú Tư định tiến lên hỏi chuyện thì cái đầu của nó thòng xuống, hai tay duỗi dài ra tới tận mặt đất, nhìn qua đã biết chẳng phải loài người. Chú Tư trố mắt:
- Ơ, vừa ra khỏi miếu đã gặp thứ quỷ này. Anh 2 để nó cho em.
- Ừm, đánh nhanh thắng nhanh. Hai đứa để ý Chú Tư thực chiến nè.